Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011


Bài học từ người quét
rác.


             Nếu không gặp được Allen - người quét rác 10 năm về trước-- có lẽ giờ này, tôi đang quay cuồng trong vòng quay vô tận của đồng tiền.


Học là việc của cả đời. Ngày tốt nghiệp đại học tôi mới mới bắt đầu sự nghiệp học hành của chính mình - học từ cuộc sống. Biết bao người thầy sau này đã dạy cho tôi vô vàn kiến thức. Họ là các giáo sư, tiến sĩ, các chủ tịch, tổng giám đốc của nhiều tập đoàn lớn
trên thế giới. Tuy nhiên tôi không thể nào quên được một người thầy đặc biệt
của mình - thầy Allen.

             Hằng ngày từ ký túc xá trên phố Mountain - Sydney (Australia), tôi khoác ba lô đi học hay lên thư viện. Mỗi buổi sáng, tôi đều bắt gặp một anh công nhân vệ sinh thu
dọn quanh khu nhà. Anh luôn tươi cười và kèm theo là lời chào rất thân thiện
“Hello, how are you” (Chào bạn, bạn khỏe chứ?). Anh làm như vậy ngay khi gặp
tôi. Về phần mình tôi luôn lẳng lặng bước đi, khuôn mặt lạnh tanh và khó chịu.
Trong đầu tôi lúc đó chỉ hiện lên một ý nghĩ duy nhất “Thằng cha này thấy sang
bắt quàng làm họ. Hắn thấy tôi có chức vụ, có tiền bạc, có học thức nên muốn
bắt quen đây. Hắn thì có khác gì mấy cô công nhân vệ sinh hay đi dọn rác trước
cổng nhà mình ở phố Thái Hà, Hà Nội”.



                       Ngày tiếp theo, anh công nhân vệ sinh vẫn cười tươi, vẫn chào tôi hết sức niềm nở. Tôi vẫn khó chịu và đút hai tay vào túi quần đi thẳng. Khuôn mặt vênh váo. Ngày thứ ba vẫn vậy, anh quét rác lại chào tôi rất vui vẻ, khuôn mặt và thân hình thể hiện sự thân thiện với tôi. Tuy nhiên, trong lần này, để cho xong chuyện tôi đã trả lời anh ta một
cách miễn cưỡng: “I am fine, thank you. And you?” (Tôi khỏe, cám ơn anh. Thế
còn anh?) Tôi nói xong và chợt nhận thấy rằng mình đã cười. Tôi đã cười mà
không biết, điều này không như trong kế hoạch ban đầu của một người coi thường
anh công nhân dọn vệ sinh. Thú vị hơn tôi phát hiện ra khuôn mặt tươi tỉnh của
chính mình, rằng hình như mình vui hơn, dễ chịu hơn, hạnh phúc hơn, thư giãn
hơn.

Vừa đi tôi vừa nghĩ về
mình rồi lẩm bẩm: “Ta thật là ngu dốt”. Quả thật, từ trước đến nay, trong suốt
bao nhiêu năm qua tôi đã có một suy nghĩ không đúng, rằng khi cười với ai đó
tôi mang lại niềm vui cho họ. Khi bắt tay ai tôi luôn nghĩ mình ban ơn cho họ.
Khi gần gũi ai, tôi luôn nghĩ họ được lợi từ tôi. Và, tôi thấy mình thật sai
lầm. Bởi, khi tôi cười với anh công nhân quét rác này người được lợi đầu tiên
không phải là anh ta mà là chính tôi.


Và tôi chợt nhận ra
rằng anh ta đâu có biết tôi là ai. Anh không hề biết tôi có bao nhiêu tiền, làm
chức vụ gì, có học thức đến đâu. Trong mắt anh ta tôi từ ký túc xá bước ra tức
tôi là sinh viên, là người đi học. Dù có học tiến sĩ, thạc sĩ hay đại học vẫn
là người đi học, là sinh viên. Mà thậm chí anh cũng chẳng quan tâm tôi có là
sinh viên hay không.Trên thực tế tôi chỉ là một người châu Á da vàng, mũi tẹt.
Nhưng anh ta cũng chẳng để ý đến chuyện ấy. Anh chỉ cười và chào tôi như đã và
đang làm việc đó với tất cả những ai từ ký túc xá bước ra. Tất cả mọi người là
bình đẳng. Tất cả chúng ta là con người. Tôi thấy xấu hổ và tôi đã nhận ra vấn
đề. Tôi đã được học một bài quý giá. Từ đó đi đâu, gặp ai tôi cũng chào và
cười. Không chỉ cười mà là cười rất tươi. Cười từ trái tim mình, từ đáy lòng
mình.


Một bữa nọ khi từ thư
viện về tôi phát hiện ra Allen - người quét rác đang ngồi uống cà phê trong
quán. Anh ăn mặc rất lịch sự, vừa nhấm nháp ly café vừa đọc sách. Ngạc nhiên và
tò mò, tôi lại gần làm quen, cùng uống café, cùng nghe nhạc với anh. Tôi không
ngờ rằng người mặc bộ quần áo bảo hộ, đi lau nhà, quét rác mỗi sáng bây giờ lại
biến thành một người lịch lãm, trí tuệ thế này. Anh đọc sách say sưa và đọc khá
nhanh. Bài học nữa tôi đã học được: Mỗi lúc chúng ta đang đảm nhận vai diễn nào
đó, lúc đóng vai nào phải làm tốt vai đó. Hơn nữa, không nên coi thường người
công nhân quét rác. Anh ấy cũng đọc sách, cũng nghe nhạc, cũng thưởng thức café
và các món ăn.


Allen đã kể cho tôi nghe
vanh vách về Kim Tự Tháp ở Ai Cập, về những gì còn sót lại từ vườn treo
Babillon ở Iraq, về vùng đất lạnh và băng giá Siberie của nước Nga. Anh nói về
thời kỳ La Mã, về chiến tranh Nam Bắc của nước Mỹ, về cuộc sống của người
Eskimo. Đặc biệt anh nói về Việt Nam
khi biết tôi là người Việt (Sau này anh kể rằng anh cứ ngỡ tôi là người Thái
hay Indonesia).


Hóa ra Alen đam mê đi du
lịch. Anh đi du lịch qua sách. Những hiểu biết của anh làm tôi kinh ngạc. Hóa
ra anh rất hiểu biết và có trí nhớ và sự tưởng tượng tuyệt vời. Allen hỏi tôi
khu vực Hạ Long có bao nhiêu hòn đảo? Khi đó, vì không biết, tôi đã nói đại
rằng quãng 1.000 hòn. Allen đã giảng giải về các hòn đảo, về địa lý, khí hậu,
thảm thực vật và thủy sản cũng như tính chất vùng biển của 1.960 hòn đảo, (chứ
không phải con số 1.000 như tôi nghĩ) trong vùng diện tích 1.553 km2 này. Nhờ
Allen mà tôi, có lẽ, đến chết không quên được những con số này.


Allen đề nghị tôi phân tích về
nhạc Việt Nam,
nhất là vấn đề đặc biệt của loại nhạc 5 nốt này. Tôi ngạc nhiên vì chưa bao giờ
biết đến nhạc của đất nước mình lại chỉ có 5 nốt. Tôi luôn nghĩ nhạc gì thì
nhạc, đã là nhạc thì phải là 7 nốt chứ. Cuối cùng tôi đã phải há miệng ra nghe
Allen nói về chèo, về cải lương, về chầu văn, và về các loại nhạc cụ của Việt Nam, đất nước
nơi tôi sinh ra và lớn lên. Allen đã dạy cho tôi bài học quý giá về tính tìm
tòi khám phá, rằng tôi phải đọc nhiều hơn, tìm hiểu nhiều hơn, quan sát và ghi
nhớ nhiều hơn.


 Chính từ bài học quý giá này
mà ngay sau khi về Việt Nam
tôi đã quyết định lái xe làm một chuyến xuyên Việt. Tôi cũng quyết đi tham quan
toàn bộ đất nước mình, không bỏ sót tỉnh nào. Tôi chợt nhận ra rằng mình đã bỏ
qua rất nhiều điều quan trọng, rằng tôi đã đi đến tận 39 quốc gia nhưng lại
chẳng hiểu được nhiều thứ đang diễn ra ngay tại đất nước mình.


Ngày tôi đến thăm nhà của
Allen, tôi lại học thêm được một bài học quý giá nữa. Allen có khoảng gần
10.000 cuốn sách. Là người học nhiều, đi nhiều, thường xuyên mua và đọc sách
nhưng tủ sách của tôi cũng chỉ có quãng 3.000 cuốn. Còn Allen, một công nhân vệ
sinh đã có một tủ sách quá vĩ đại. Anh đam mê sách và đã bỏ một khoản tiền lớn
ra mua, trưng bày sách. Anh nói đã đọc hết những cuốn sách này. Thậm chí có
những cuốn đọc đến 2-3 lần. Tôi nhớ khi đó tôi có mong muốn quỳ dưới chân anh
xin nhận anh làm thầy.


Cũng tại những lần đến thăm
anh, tôi đã được học cách nấu ăn. Làm sao nấu đơn giản, đủ chất, ngon miệng mà
không quá cầu kỳ. Một tình bạn thân thiết đã nảy mầm giữa một doanh nhân với
một anh quét rác. Chuyện này tôi không thể tưởng tượng được trước đó một vài
năm. Từ ngày gặp Allen tôi bỏ hẳn các tính xấu của mình: kiêu ngạo, soi mói,
coi thường người khác. Tôi cũng trở nên điềm đạm hơn, nói nhỏ hơn, ít nóng tính
hơn. Tôi cũng không còn “bệnh” nhìn hình dáng bên ngoài mà kết luận con người
nữa. Tôi luôn niềm nở và giúp đỡ mọi người. Tôi quyết định chọn sứ mệnh “sẻ
chia” của mình từ ngày đó.


 Cũng nhờ Allen và những người thầy khác sau này tôi đã hiểu và thực hành nguyên tắc “cho mà không đòi hỏi, cho mà không cần nhận”. Tôi cũng đã triển khai mỗi ngày, mỗi giờ cách sống “pay it forward” - đáp đền tiếp nối. Cũng từ ngày đó cuộc đời của tôi luôn hạnh phúc, bình an và chan chứa yêu thương.

Gần chục năm đã trôi qua. Bây giờ nghĩ lại, nếu không gặp được Allen, chắc tôi vẫn đang quay cuồng trong vòng quay vô tận của đồng tiền, không chút nghỉ ngơi, không dành thời gian để hiểu
và sống hạnh phúc với những người xung quanh, trong đó có các bạn bè, đồng
nghiệp và hàng xóm.


Tôi thật biết ơn thầy tôi, bạn tôi - Allen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét