Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011

GIĂNG LƯỚI BẮT CHIM



Kính Cô Kim Anh
(thân mến),


Lời đầu
tiên là:
NNS không bao gi
quên Chúc Lành đ
ến Cô và Thân Hu
m
i ngày.


 Cô
xem ra rất mộ Đạo, sáng nay mời Cô đọc bài Tạp văn: "Giăng Lưới Bắt Chim" của Nguyễn
Huy Thiệp
, xem sao nhé. Câu chuyện quanh quẩn về Sư Huyền Quang, tổ
thứ 3 của Thiền phái Trúc lâm, khai sáng bỡi Vua Trần Anh Tôn. Dưới thời trị vì
của Ngài, nước ta đã đánh bại giặc Tàu 2 lần và người đầu tiên mở
ra Hội nghị Diên Hồng. 


"...Thiền
phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà), Pháp LoaHuyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của
dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỉ thứ 12 – đó là
dòng Thảo Đường, Vô Ngôn ThôngTì-ni-đa-lưu-chi.


Thiền
phái Trúc Lâm được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó
nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai
một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống
truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi
vì đến thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh (1600-1700), người ta lại
thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như Viên Cảnh Lục
Hồ
, Viên Khoan
Đại Thâm
và nổi bật nhất là Thiền sư Minh Châu
Hương Hải
(theo Nguyễn Hiền Đức).


Sau một
thời gian ẩn dật, dòng Thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương
Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế kỉ thứ 17-18, thiền phái này
được hoà nhập vào tông Lâm Tế từ Trung Hoa và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là
Chân Nguyên
Huệ Đăng
...."


Khi mới
xuất hiện, những sáng tác của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã gây nên một cuộc
tranh luận văn học sôi nổi. Văn phong và cách sáng tác từ trực giác
của Tác giả rất lôi cuốn người đọc. 


Giăng
lưới bắt chim

 


   Sư Huyền
Quang, vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm trước khi xuất gia là một Trạng nguyên,
đã từng từ hôn công chúa Liễu Sinh. Vua Trần Anh Tông nói với quần thần:


     - Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí
dương, ăn thích vị ngon, mặc thích màu đẹp, đều có tình dục như thế. Đấy là lẽ
thường. Chúng ta ngăn hãm một phía ham muốn ấy lại chính là để dốc lòng phụng
đạo, đó là đành đi một lẽ. Riêng Huyền Quang sắc sắc không không, vậy đó là
người ngăn hãm lòng dục hay là không có lòng dục?

     Mạc Đĩnh Chi nói:

     - Vẽ hổ chỉ vẽ được da, không vẽ được xương. Biết
người chỉ biết mặt, ít biết được lòng. Vậy xin cho người thử xem.

Vua Trần Anh Tông nghe lời Mạc Đĩnh Chi, cử một nữ gián điệp xuân sắc mê hồn là
nàng Thị Điểm Bích tìm đến Yên Tử để thử Huyền Quang theo kế giăng lưới bắt
chim
...

     Huyền Quang, tên thật là gì không rõ, trong sử ghi là
Lý Đạo Tái. Ông người làng Vạn Tải, huyện Gia Bình, xứ Kinh Bắc (nay thuộc
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Từ nhỏ nổi tiếng thần đồng, nghe một hiểu
mười, nên người ta mới mệnh danh là Đạo Tái. Có sách chép Lý Đạo Tái đỗ Trạng
nguyên khoa Nhâm Tý (1252) đời vua Trần Thánh Tông, lúc này mới 23 tuổi. Trong
dân gian kể rằng nhà Lý Đạo Tái nghèo, không có đất cắm dùi. Khi còn hàn vi, Lý
Đạo Tái từng hứa hôn với một cô gái nhưng về sau bị từ hôn, cô gái đi lấy một
người nhà giàu. Cuộc nhân duyên lần thứ hai cũng thế. Chán nản, Lý Đạo Tái
chuyên vào mỗi chuyện học hành rồi đỗ Trạng nguyên. Khi ấy, nhiều người đến
manh mối hôn nhân nhưng ông đều từ chối, kể đến cả công chúa con vua. Nghe đồn
Lý Đạo Tái đã từng ngán ngẩm than rằng:



Khó khăn
thì chẳng ai nhìn

Đến khi đỗ Trạng tám nghìn nhân duyên!



   
Lý Đạo Tái theo đường hoạn lộ, nhiều lần đứng ra tiếp sứ thần Trung Hoa. Về
sau, ông được sư Pháp Loa giác ngộ bèn xuất gia tu hành.

    Sư Pháp Loa (tức Đồng Kiên Cường) là vị tổ thứ hai môn phái
Trúc Lâm, đã theo vua Trần Nhân Tông khi người xuất gia ở núi Yên Tử. Vua Trần
Nhân Tông, lấy pháp danh là Điểu Ngự trước khi viên tịch đã truyền y bát lại cho
sư Pháp Loa, nay sư Pháp Loa giác ngộ và truyền y bát lại cho Lý Đạo Tái với
pháp danh là Huyền Quang.

     Huyền Quang là người có căn tu thế nào? Tại sao Huyền
Quang lại trở thành vị sư tổ thứ ba trong phái Trúc Lâm, một môn phái Phật giáo
có ảnh hưởng rất lớn đến thế giới tâm linh của người Việt Nam?

     Bài thơ Cúc hoa của Huyền Quang nói tâm sự của một
người tu đạo ở trong núi, ngắm hoa mới sực biết thời gian trôi đi:

 


Vong thân, vong thế dĩ đô vong

Tọa cửa tiên nhiên nhất tháp lương

Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật

Cúc hoa khai xứ nhất trùng dương.


 


   
Một người quên mình (vong thân), quên đời (vong thế) ngồi mãi
trong rừng sâu không có lịch, không biết năm hết Tết đến, thấy hoa cúc nở mới
đoán là đã đến Tết trùng dương! Vì sao người này lại ngắm hoa cúc mà không đi
ngắm hoa khác?



Chủ nhân
dữ vật hồng vô cảnh

Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu

(Lòng người và cảnh vật vốn không xung khắc

So sánh với muôn hoa, thì cúc đứng đầu
)



   
Theo ý tứ bài thơ thì thấy Huyền Quang không phải là người không có thiên vị,
không có tình ý riêng! Cũng trong bài thơ Cúc hoa này, Huyền Quang đã có một
nhận xét rất sâu sắc: Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp (Nghĩa khí mà khác nhau
thì khó mà hòa hợp
). Đạo Phật thường lưu tâm người ta ở hai chữ nhân duyên.
Huyền Quang cũng giống mọi người, không phải là lòng dạ sắt đá gì, không phải
là người không hiểu biết về lẽ nhân duyên. Trong một bài thơ khác nữa tên là
Sơn vũ (Nhà trong núi) tâm tình Huyền Quang phảng phất bâng khuâng:



Thu
phong ngọ dạ phật thiềm nha

Sơn vũ tiên nhiên chầm lục la

Dĩ hí thành thiền tâm nhất phiến

Cùng thanh tức tức vị thuỳ đa

(Đêm khuya, gió thu xao xác ngoài mái hiên

Nhà trong núi đìu hiu giữa lùm cây xanh

Tấm lòng tu hành từ lâu đã hóa theo Phật

Tiếng dế vì ai mà kêu rầu rĩ mãi?
)



  
Phái Trúc Lâm là phái có nhiều đệ tử tri thức nhất, học thức nhất, danh giá
nhất ở nước ta. Huyền Quang được trao y bát, trở thành sư tổ của phái này thì
căn tu, công lực đại thành của Huyền Quang ắt hẳn xuất chúng.

     Làm sáng tỏ Phật tính là một mệnh đề cơ bản
trong Kinh Niết bàn. Việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đi thử lòng Huyền
Quang cũng có thể coi là một công án nhằm làm sáng tỏ Phật tính ở vị đại sư này
vậy.

     Ngày xưa, có người băn khoăn về pháp môn Bất nhị
của Phật pháp đã từng thỉnh vấn Đức Phật: Những người phạm tội tà dâm, giết
người, trộm cướp v.v... liệu có mất hết thiện căn Phật tính hay không? Đức Phật
đáp: Thiện căn có hạng thường và hạng vô thường. Phật tính chẳng thường mà cũng
chẳng vô thường, cho nên không đứt đoạn, gọi là pháp Bất nhị. Một hạng
thiện, một hạng bất thiện, gọi là pháp Bất nhị. Uẩn Giới kẻ
phàm cho là hai nhưng bậc trí giả thì hiểu rõ tính của nó không phải là hai.
Tính không hai đó (Vô nhị chi tính) tức là Phật tính.

     Theo cách giải thích trên có thể hiểu rằng người ngu
kẻ trí Phật tính vốn không khác nhau, chỉ vì mê và tỉnh không giống nhau nên
mới có kẻ ngu và trí mà thôi.

     Trở lại việc vua Trần Anh Tông cho Điểm Bích đến thử
Huyền Quang ở núi Yên Tử thì tưởng như mưu giăng lưới bắt chim là sâu
sắc nhưng thực lại là mê vậy. Chuyện rằng Điểm Bích đã dùng nhiều kế nhưng
không lay chuyển được Huyền Quang nên nàng bèn về tâu dối vua. Sách Tam tổ thực
lục ghi lại lời tâu ấy như sau:

     ... Tôi vâng chiếu chỉ đi thử thiền sư Huyền Quang.
Đến chùa Vân Yên, vào ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin
được theo học đạo tôn sư. Bà vãi già thường sai tôi dâng nước chè lên cho sư.
Trải qua hơn một tháng, sư không hề liếc nhìn, hỏi han gì tôi cả. Một hôm nửa
đêm, sư lên nhà tụng kinh, đến canh ba, sư và đám tăng ni ai nấy đều về phòng
mình mà ngủ. Tôi bèn đến bên cạnh phòng của thiền sư để nghe xem động tĩnh thế
nào thì thấy sư ngâm lời kệ rằng:



Vằng vặc
giăng mai ánh nước

Hiu hiu gió trúc khua sênh

Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ

Mâu Thích ca nào chẳng hữu tình.



   
Sư ngâm đi ngâm lại mãi, tôi bèn vào phòng tăng, từ biệt sư để về thăm cha mẹ,
để sang năm sẽ quay lại học đạo. Sư bèn giữ tôi lại ngủ một đêm, rồi cho tôi
một dật vàng.

     Nhà vua nghe lời Điểm Bích tâu, lòng bực bội không
vui. Nghĩ lại, nhà vua tự trách mình:

     - Sự việc nếu quả như lời Điểm Bích thì đúng là ta
giăng lưới ở tổ bắt chim, chim nào mà không bị hại! Nếu sự việc mà không như
thế thì hóa ra ta đã làm hại quốc sư, đẩy ông ta vào mối ngờ vực oan ức! Nếu
hiểu rõ pháp Bất nhị của nhà Phật thì việc thử lòng này thật là nhảm
quá!

     Để sửa lỗi, cũng là để minh oan chiêu tuyết cho Huyền
Quang, nhà vua cho mở hội Vô Già ở kinh thành, triệu Huyền Quang về làm lễ. Nhưng
trái với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ, nhà vua cho giết bò và lợn,
dọn toàn cỗ mặn.

     Huyền Quang bước vào lễ, kêu tên Đức Phật khấn rằng:

     - Kẻ đệ tử này có điều gì bất chính, xin chư Phật cho
đày xuống A Tì địa ngục, còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành
chay tất cả.

      Huyền Quang khấn xong, bỗng có gió mạnh nổi lên,
trời đất tối sầm. Khi gió tàn, trời sáng, tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành
cỗ chay tinh khiết thơm tho. Nhà vua và mọi người thấy Huyền Quang làm phép
thông cảm được với trời đất thì đều vô cùng cảm phục, quỳ xuống lạy tạ.

     Huyền Quang viên tịch ở tuổi 82. Cho đến ngày nay, dân
gian nhiều nơi vẫn kể lại những truyền thuyết trong cuộc đời ông. Có người nói
rằng các món cỗ chay làm giống cỗ thường trong ngày lễ tết ở các nhà chùa là từ
sự tích này. Nhân ngày Xuân, đọc lại sách Phật ngẫm ra nhiều điều. Trong chúng
sinh, căn tính người ta có người sắc bén có người cùn nhụt. Người mê chấp thì
phải tu thân, học tập; còn người giác ngộ có thể đột nhiên ứng hợp; chung quy
lại để nhằm tự mình nhận thức được bản thân mình, tự mình chứng kiến được bản
thân mình, sống hòa hợp cùng tự nhiên với tâm hồn trong sáng.

     Phía trước là cuộc sống vẫy gọi! Đấy là tương lai với
đầy mơ ước cho tất cả mọi người!


.....................................................


Mời Cô và Thân Hữu
xem một pps hay:
Nhạc Trịnh Công
Sơn.


Bài 1: Ru Đời Đi
Nhé
, do chính Tác giả trình bày. Hát tuy không hay
bằng Ca sĩ chuyên nghiệp, nhưng diễn tả thật đúng tâm trạng và tha thiết
lắm.


Bài 2: Như Cánh Vạc Bay, do Lệ Thu và
Khánh Ly cùng hát.


NNS cũng
không quên kèm một bài Thơ (cổ).


Như thế
thì: Văn, Thơ, Nhạc đủ đấy Cô nhé.


Nói đến
Thơ là Em thích lắm. Có người còn cho rằng: trong Văn học "ngôi Chúa
Lời" trước sau vẫn thuộc về Thơ. Tác phẩm đầu tiên của Nhân loại là Kinh
Thi đấy. Cô không tin ư: cứ hỏi Nguyễn Huy Thiệp, Đại ca Phan Ni Tấn, Luân
Hoán, Trần Kiêu Bạt, Thủy Nam, Dương Kiền, Phạm Anh Dũng, Nguyên Nhung,
HD-HKL..nhất là mấy Bác giỏi Hán Tự
(hôm nào đã có viết mấy dòng khen NNS của Cô) và... Bạn bè quanh
Cô (hay chữ) thì rõ. NNS của Cô chỉ "Cộp" rồi nói linh tinh
thôi. Nếu Cô hỏi về Khoa học, mới chính nghề ruột của NNS, bảo đảm không
làm thất vọng Cô. Vì vậy trong những "lời tâm sự mỗi buổi sáng"
 cùng Cô rất nhiều sơ hở, Cô và Thân hữu bỏ qua cho.


Cô thử
đọc bài "Tử Khâm: Cổ Áo Chàng":





"..Thanh thanh tử khâm


Du du ngã tâm


Túng ngã bất vãn


Tử ninh bất tự âm?





 Thanh thanh tử bội


Du du ngã tâm


Túng ngã bất vãng


Tử ninh bất lai?





Khiêu hề thoát hề


Tại thành khuyết hề


Nhất nhật bất kiến


Như tam thu hề.."





Dịch:





Cổ áo Chàng xanh xanh


Vẩn vơ
Em nghĩ


Nếu Em
không đến


Sao
Chàng chẳng hỏi thăm?





Dây đeo ngọc của Chàng xanh xanh


Vẩn vơ
Em nghĩ


Nếu Em
không đến


Sao
Chàng chẳng lại?





Em nhẹ nhàng nhảy lên


lầu trên
thành


Một ngày
không thấy Chàng như ba tháng.."


(Trịnh Phong 17).





Bài Thơ
trên dù viết đã gần 3 ngàn năm dư, câu nào cũng hay cả. Bốn câu cuối có 4
từ đưa hơi "hề", sao nghe mượt mà quá...


Ngay
trong Việt văn, NNS cũng từng đã đọc, mượn chữ hề để đưa hơi:


"..Nắng đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê


Tráng sĩ
một đi hề.. không trở về"... nói về chuyện Thái Tử Đan tiễn Kinh Kha
qua sông Dịch, vào đất Tần bất trắc năm nào...nghe sao hay hay Cô nhỉ. 





Đứa Em "nhiều chuyện" của Cô và Thân
Hữu


Kính,


NNS







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét