Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

LỚP HỌC HAI NGƯỜI









<> <> <>

 
 


 
> Lớp Học Hai Người

  > Nguyễn Trung Nguyên

  >

  >

  > Thằng Tâm vừa đúng 18 tuổi và không biết một

  > chữ nhứt là một. Tôi phát hiện điều nầy

  > trong đợt thăm nuôi vừa rồi. Cả phòng D1 chỉ

  > vỏn vẹn bốn người với sáu mét vuông, bao gồm

  > cả chổ ngủ, hầm bô, bồn nước… nên tất

  > cả đều đồng ý chung mâm, có gì ăn nấy. Nếu

  > so với dãy A và C phía bên kia, thì D1 đúng là

  > thiên đường trong cái trại tạm giam nầy. Chỉ

  > một lớp cửa sắt, lại gần nhà bếp, thi

  > thoảng ghé mắt qua lỗ đưa cơm thấy mấy

  > người ở phòng lao động tất bật vo gạo, làm

  > cá cũng vui. Hóa ra, ở đâu cũng có sự phân

  > định rạch ròi. Điều nầy phải đợi đến khi

  > cả bốn đứa đều nhận được cáo trạng, tôi

  > mới suy ra. Dãy D là nơi tạm giữ những người

  > mới phạm tội lần đầu, hoặc do sơ ý mà phạm

  > tội. Nói chung không phải dạng ở tù chuyên

  > nghiệp, có thể cải tạo được nói theo thuật

  > ngữ của những nhà giáo dục học.

  >

  >

  >

  >

  > Lần đầu tiên nếm mùi tù tội nhưng xem ra

  > thằng Tâm không có gì là sợ hãi. Khi mới

  > chuyển qua phòng nầy, thấy một thằng oắt con

  > đúng nghĩa, trần truồng hết sức tự nhiên,

  > miệng ong ỏng ca mười năm không gặp tưởng

  > tình đã cũ. Tôi đã ghét hết sức ghét! Nhưng

  > sau đôi ba tháng chung đụng trong khoảng không gian

  > chật chội nầy, tôi lại thấy thương nó nhất

  > phòng. Thì ra, khi mở miệng là chưởi thề, hở

  > một chút là cây hàng 5 tấc, 6 tấc cũng chỉ là

  > một kiểu ham làm người lớn

  > mới vừa học được trong tù. Nó làm người ta

  > thấy tức cười hơn là sợ hải.

  >

  >

  >

  >

  > Sự phân định giàu nghèo sẽ phơi bày hết bộ

  > mặt nhẫn tâm của nó trong môi trường tù tội

  > và bệnh viện, nơi mà mọi vỏ bọc cảnh giác

  > không còn. Một gương mặt hớn hở khi giỏ thăm

  > nuôi đầy ắp thức ăn đắt tiền. Và kia, ánh

  > mắt lặng lẽ cuối xuống với túm đôi ba ổ

  > bánh mì yểu xìu, khô khốc. Má thằng Tâm mỗi

  > tháng mới vào thăm nó một lần. Sáng nầy, vừa

  > mở mắt nó đã nói với tôi bữa nay má em vô.

  > Và khi nó xách lệch vai cái giỏ nặng trĩu bước

  > vào phòng, sau tiếng rít ken két của cánh cửa

  > sắt, ba đứa tôi đã ồ lên vô mánh. Thằng

  > Tiếu lanh chanh đón lấy giỏ đồ, cầm mảnh

  > giấy ghi tên tuổi người thân và liệt kê những

  > món đồ gởi kèm đưa thằng Tâm nói: mầy đọc

  > lên cho tao kiểm tra coi đủ không. Trái với sự

  > háo hức khi ra nhà thăm nuôi, nó buông một câu

  > xuôi xị: kệ nó. Cái thằng! Tiếu cằn nhằn

  > rồi cầm mảnh giấy lẩm nhẩm đọc: Ủa!

  > Người gởi chị Nguyễn Thị Đào, không phải má

  > mầy vô sao Tâm? Đang cởi quần áo, thằng Tâm

  > quay qua như cái lò xo. Cái gì? Chị Đào nào!

  > Chết mẹ! Lộn giỏ rồi. Nói xong nó nhào tới

  > cửa chỏ miệng ra hét lớn: Cán bộ ơi! Cán bộ

  > ơi! Lộn giỏ rồi…

  >

  >

  >

  >

  > Tối hôm đó, nằm kế tôi thằng Tâm cứ trằn

  > trọc không yên. Hai đứa kia đã ngáy khò khò.

  > Sực nhớ chuyện hồi sáng, tôi hỏi nó khi nhận

  > giỏ sao mầy không đọc tên người gởi. Phải

  > hồi lâu sau nó mới trả lời: em có biết chữ

  > đâu mà đọc! Rồi nó kể cho tôi nghe. Thằng Tâm

  > không có cha. Nó được sinh ra và đương nhiên

  > nhập hộ khẩu vào xóm rác. Một khu xóm lụp

  > xụp nằm ven quốc lộ, gần bãi rác thành phố.

  > Khi vừa biết đi, biết chạy thì chổ nó lao

  > đầu vào cũng là bãi rác, nơi hàng ngày mấy

  > chiếc xe đầy ắp thứ đồ phế thải của con

  > người đổ xuống. Má nó tiệt không nhắc một

  > tiếng về người đàn ông đã kết hợp với

  > mình, dù muốn hay không muốn; dù hân hoan hay

  > đớn đau thì cũng đã cho ra đời một sinh linh

  > là nó. Lớn lên một chút, đôi khi nó tự hỏi:

  > ba mình là ai hén ta?! Giống ông nầy hay ông kia

  > rồi ngơ ngẩn nhìn đống rác bốc mùi…

  >

  >

  >

  >

  > Nhiều bữa, chiều xuống vác bao “chiến lợi

  > phẩm” về nhà. Nó thấy hoài tụi học sinh cỡ

  > tuổi nó, chạy xe đạp ngoài lộ, cười giỡn

  > vang rân. Tụi nó đứa nào cũng đeo một cái khăn

  > màu đỏ trên cổ, chẳng biết để làm gì! Nó

  > khoái được như vậy lắm, nhưng thổ lộ với

  > má thì nó không dám. Mà nó cũng không có thời

  > gian đâu mà đi học. Phải canh xe về ngoài bãi,

  > mà phải công nhận nó có “khiếu” móc rác hay

  > sao ấy. Cả một xe đổ ụp xuống hàng bao nhiêu

  > tấn rác, cả một đám mười mấy con người

  > già, trẻ lao vào. Vậy mà, lúc nào nó cũng kiếm

  > được nhiều hơn những người khác. Có lần,

  > kể cho tôi nghe mà nó còn rùng mình. Em vớ

  > được một bọc vải nằng nặng, mở ra là một

  > đứa bé mới sinh đã chết cứng tự hồi nào.

  > Bà ngoại – là người đàn bà già nhất xóm -

  > tụi nhỏ quen miệng gọi là bà ngoại. Mang ra

  > chôn ở rìa bãi rác, cũng nhang khói đàng hoàng

  > mấy ngày.

  >

  >

  >

  >

  > Thằng Tâm mê đi xe đạp lắm, nó muốn được

  > một lần mặc áo trắng, không có khăn quàng cũng

  > được, vừa chạy xe vừa cười giỡn như tụi

  > nhỏ mỗi chiều. Má nó hứa: Ừ! Con ráng kiếm

  > tiền dành dụm. Khi nào biết chạy xe, má mua cho

  > một chiếc. Mọi việc chưa đâu vào đâu, giấc

  > mơ đeo đuổi nó suốt một thời tuổi thơ nhọc

  > nhằn vẫn chưa thực hiện được, thì nó lại

  > vào đây. Cái thằng, bộ nó tưởng luật pháp có

  > thể xin tì như chơi nhà chòi hay sao? Bữa đó, ra

  > thị trấn mua đồ cho má. Trưa nắng gắt váng

  > cả đầu. Không biết xe đạp của ai mà để

  > khơi khơi, chẳng khóa mà cũng chẳng ai coi chừng.

  > Ma xui quỷ khiến không biết, nó bước tới dắt

  > đi tỉnh bơ. Đến khi nghe tiếng hô hoán: Ăn cắp

  > xe! ăn cắp xe! Nó còn chưa biết người ta đang

  > nói mình. Bị đòn thì đành rồi. Cán bộ điều

  > tra hỏi: Sao lấy xe mà không chạy? Nó nói: Con

  > không biết chạy. Vậy mầy lấy làm gì? Dạ! Con

  > tính lấy về tập chạy… cán bộ kêu trời rồi

  > kết luận điều tra cái rụp.

  >

  >

  >

  >

  > Tôi tuyên bố với cả phòng: Tao sẽ dạy thằng

  > Tâm học. Ít ra, nó cũng phải đọc được tên

  > má nó khi nhận đồ thăm nuôi. Trong thời gian

  > chờ ra tòa chỉ có ăn và ngủ, nên khi tôi bày

  > chuyện chẳng thằng nào phản đối. Nhưng, lại

  > nhưng! Dạy bằng cách nào? Ở trại tạm giam,

  > tuyệt đối cấm sử dụng giấy viết vì sợ

  > thông cung. Viết lên tường ư? Cán bộ kiểm tra

  > là “bành thân”! Suy đi, tính lại tôi sực nhớ

  > thằng nào vô đây mà không có vài tờ giấy tạm

  > giữ, rồi gia hạn tạm giữ, rồi tạm giam đã

  > hết hạn. Tôi bảo ba đứa lục giỏ đưa tôi

  > mấy tờ lệnh. Mỗi tờ xé làm 8 mảnh, chỉ 4

  > tờ thôi đã đủ để làm một bộ mẫu tự. Xong

  > chuyện giấy, lại đến chuyện mực viết. Cái

  > nầy phải nhờ Tuấn đen, cái thằng tháo vát

  > nhất phòng. Nó lui cui xé mấy cái bọc hai quay

  > làm hỏa tốc đốt lên rồi lấy cái bo (thau mủ)

  > bể hứng khói. Cái gì chứ khói hỏa tốc thì

  > khỏi nói, đen kịn, đầy nhóc. Chỉ một lúc là

  > đủ, Tuấn cạo khói vào một cái chén, thêm chút

  > nước quậy lên sền sệt, đâu thua gì mực tàu

  > của mấy ông thầy nho. Còn viết thì dễ kiếm

  > rồi, chiều khi cán bộ mở cửa đổ rác Tuấn

  > nhanh tay nhặt một que tre, tước cho vừa tay,

  > đập dập dập một đầu là xong.

  >

  >

  >

  >

  > Cuối cùng tôi cũng có một bộ mẫu tự đầy

  > đủ cả chữ lẫn số. Hàng ngày, tôi xếp từng

  > con chữ ra dạy Tâm tập đọc, rồi ráp vần

  > xuôi, vần ngược. Cái thằng coi vậy mà sáng dạ

  > lạ lùng, thêm nữa thằng Tuấn đen, rồi thằng

  > Tiếu thấy Tâm ham học cũng bày đặt sắp chữ

  > nầy, chữ nọ ra đố. Nhờ đó thằng Tâm càng

  > mau biết. Nhiều bữa, hai “thầy – trò” nằm

  > bò ra mà đánh vần. Cái thằng, đọc được

  > hứng chí hay sao mà cứ quát miệng lên gào:

  > m..a..sắc..má! bờ..a..ba! làm cán bộ quản giáo

  > tưởng có chuyện gì, bước đến cửa, đứng

  > nghe một hồi rồi bỏ đi.

  >

  >

  >

  >

  > Cái mà thằng Tâm lần đầu tiên đọc được

  > suôn sẻ lại chính là tờ giấy triệu tập nó ra

  > tòa. Tôi biết giờ chia tay của chúng tôi sắp

  > đến, mỗi đứa sẽ đi một đường, cho trọn

  > cuộc hành trình tù tội của mình. Nhiều đêm,

  > nằm bên nhau tôi khuyên Tâm sau nầy về đời cố

  > gắng học một nghề gì đó. Lớn rồi, cứ sống

  > dựa vào của bỏ đi của thiên hạ liệu có

  > thành người hay không?! Khi tôi xách bọc quần áo

  > bước ra khỏi phòng D1, cũng là lúc tôi và thằng

  > Tâm chia tay chẳng biết khi nào gặp lại.

  >

  >

  >

  >

  > *

  > Bẵng đi đâu cũng tám, chín năm. Khi mà chuyện

  > tù tội đã trở thành sợi khói mỏng manh trong

  > ký ức thì tôi gặp lại thằng Tâm. Sáng đó,

  > vừa trờ xe tới một ngã tư thì kẹt đèn đỏ,

  > đang lừng khừng nửa muốn đạp thắng, nửa

  > muốn rồ ga thì có tiếng gọi tên tôi, giọng

  > mừng rỡ. Quay qua, một khuôn mặt rất quen nhưng

  > tôi không nhớ đã gặp ở đâu, phía trước xe

  > lại có một bé gái khoảng 5, 6 tuổi. Gương mặt

  > sáng ngời xinh xắn, hai cái bím tóc cột nơ màu

  > hồng, long lanh như hai giọt sương buổi sáng. Anh

  > không nhớ em sao? Thằng Tâm D1 nè! Anh đợi em

  > một chút, em cho con nhỏ đến trường rồi anh em

  > mình kiếm chổ uống cà phê tâm sự.

  >

  >

  >

  >

  > Chấp nối những lời kể rời rạc của Tâm sau

  > vài lần cà phê, cà pháo rồi lai rai thịt cầy,

  > thịt chuột tôi cũng hình dung được cuộc đời

  > của nó sau ngày ra tù. Xách bọc đồ về đến

  > xóm rác, câu đầu tiên thằng Tâm nói với má nó

  > là: Con biết đọc rồi! Con muốn học nghề chớ

  > không móc rác nửa đâu! Chuyện thằng Tâm ở tù

  > mà biết đọc chữ khó tin giống như cái xóm

  > lụp xụp đó hóa thành nhà lầu. Phải đến khi

  > nó cầm tờ báo lên đọc ro ro, mọi người mới

  > tròn mắt gật đầu. Má nó coi bộ suy nghĩ lung

  > lắm. Rồi chẳng biết cậy cục sao đó, đâu

  > tháng sau thằng Tâm được theo học nghề thí

  > công tại một cửa hàng sửa chữa xe gắn máy

  > trong thành phố. Thấy nó sáng dạ lại chịu khó,

  > chỉ gần năm trời ông chủ cho nó ăn ngủ luôn

  > tại chổ, còn ưu tiên cho nó nhận bơm, vá xe

  > đạp lấy tiền bỏ túi.

  >

  >

  >

  >

  > Xéo xéo chổ nó làm là một trung tâm dạy nghề.

  > Mấy đứa con gái học may trong đó ghé chổ nó

  > mượn ống bơm hoài. Đồ hà tiện! Có năm trăm

  > cũng tiếc. Chỉ có một đứa duy nhất khi xe xẹp

  > bánh, không mượn mà kêu nó bơm rồi móc năm

  > trăm ra đưa. Đồ làm phách! Đã vậy ta đây cũng

  > không thèm, năm trăm mà nhằm nhò gì! Để đó

  > đủ trăm ngàn lấy luôn. Bữa nọ, đã sắp đến

  > giờ trung tâm đóng cửa, con bé “làm phách”

  > hớt hơ, hớt hải dắt xe tới nói: Anh coi giùm em

  > cái bánh xe, cho em gởi luôn nghe, tới giờ học

  > rồi! Nói xong nó tọt vô trỏng chẳng cần biết

  > thằng Tâm có đồng ý hay không. Thiệt tình! Có

  > cái “chân đi” mà cũng không “chăm sóc thuốc

  > thang” tử tế. Tâm lầm bầm trong miệng rồi lui

  > cui lấy đồ nghề mở bánh xe. Trời ạ! Cái

  > ruột vá chằng, vá đụp còn hơn trưởng lão tám

  > túi. Kiểu nầy chỉ có thay ruột mới chớ vá

  > nỗi gì! Thằng Tâm nói với tôi: Chẳng biết lúc

  > đó em nghĩ gì mà móc tiền túi ra mua cái ruột xe

  > mới thay cho nó. Đã vậy, lúc lấy xe nó hỏi bao

  > nhiêu tiền, em còn nói trớ đi xì vòi, sửa chút

  > xíu tiền bạc gì. Để đó đủ trăm ngàn lấy

  > luôn.

  >

  >

  >

  >

  > Hai ngày sau con nhỏ ghé lại, không bơm, sửa gì

  > cả mà đưa em cái bọc nhỏ. Mĩm cười rồi

  > chạy vô trường. Mở ra, một gói Héro và mảnh

  > giấy ghi mấy chữ: Em cám ơn anh nhiều lắm! May

  > phước là em biết đọc, không thì chẳng biết ra

  > sao! Tụi em quen nhau từ đó. Suốt mấy năm trời

  > thằng Tâm dấu biệt chuyện nó lớn lên ở xóm

  > rác, chuyện tù tội và cả chuyện chỉ đọc

  > được, chớ viết thì khó còn hơn lên trời!

  > Mỗi lần nhận thư, đọc xong nó trả lời bằng

  > miệng luôn, viện cớ sửa xe tay chân dầu mỡ,

  > cầm mỏ lết quen rồi, viết thư lọng cọng.

  >

  >

  >

  >

  > Cũng trắc trở trăm bề nhưng rồi tụi em cũng

  > thành vợ thành chồng. Nhờ hai đứa cắc củm

  > dành dụm, rồi người nầy người nọ giúp đỡ,

  > tụi em mua được miếng đất nhỏ cất nhà, em

  > sửa xe, vợ em may đồ loanh quanh trong xóm cũng

  > sống được. Thiệt đúng là cây kim trong bọc

  > lâu ngày cũng lòi ra. Khi đó vợ em có bầu độ

  > ba bốn tháng, một buổi trưa nọ vắng khách em

  > đang thiu thiu ngủ thì nghe tiếng gọi: Anh ơi! Ra

  > ghi giùm em… thì ra có hai bà khách đến may đồ,

  > họ đang gấp gáp chuyện gì đó mà hối thúc

  > luôn miệng. Thằng Tâm vừa bước ra, thì vợ đã

  > nhét vào tay cuốn sổ và cây viết. Tay
  đo thoăn

  > thoắt, miệng thì: Ngang… tay… nách… Em đứng

  > đực người ra, lúng túng – thằng Tâm nhớ lại

  > – cây viết trong tay nặng chịt như núi Ngũ hành

  > sơn đè Tề thiên. Lóng cóng chẳng biết làm gì,

  > em bỏ đại cây viết, cuốn sổ lên bàn, tay vớ

  > cái nón, chân bước ra cửa, miệng nói: Anh đi

  > công chuyện! Tiếng một bà khách lầm bầm:

  > Chồng con gì! Thiệt tình, nhờ chút xíu cũng

  > không được! Thôi, đưa đây tui ghi cho… Đi

  > tuốt ra quán cà phê bờ sông, em ngồi đó suốt

  > cả buổi chiều, suy tới tính lui mà buồn. Không

  > phải em buồn vì mình không biết viết chữ, cái

  > em buồn là không giúp được vợ mình trong một

  > chuyện nhỏ như vậy! Sau nầy những chuyện lớn

  > hơn sẽ ra sao?!

  >

  >

  >

  >

  > Khi thằng Tâm quay về nhà thì vợ nó đã chuẩn

  > bị cơm nước xong xuôi. Tuy vợ không nói gì,

  > nhưng nó biết giữa hai vợ chồng sẽ có một

  > chuyện gì đó. Đến lúc vào mùng ngủ con vợ nó

  > mới thủ thỉ: Anh không biết viết phải không?

  > Trời lạnh mà em muốn đổ mồ hôi hột –

  > thằng Tâm nói – nhột quá, cuối cùng em đành

  > nói thiệt. Em kể cho nó nghe hết mọi chuyện mà

  > em còn dấu diếm. Từ chuyện bãi rác, chuyện

  > gặp anh trong tù, chuyện được anh dạy đọc và

  > cả cái câu anh khuyên em kiếm một nghề gì

  > đó… Con vợ em không nói gì cả mà ôm em khóc

  > ròng. Mấy bữa sau nó nói: Anh phải tập viết

  > chữ, để sau nầy còn viết tên con mình khi nó

  > đến trường. Rồi nó kiếm ở đâu không biết

  > lôi về nào mấy cuốn tập đồ, tập viết đủ

  > cả… Tối xuống, đóng cửa, nó cầm tay em tập

  > viết từng chữ, cứ như đang tập cho em bé. Nó

  > còn kể cho em nghe chuyện bà gì đó dạy chồng

  > hồi xưa, rồi bắt buộc mỗi ngày em phải viết

  > xong một trang mới vô ngủ.

  >

  >

  >

  >

  >

  >

  >

  >

  > Bây giờ thì em viết được rồi, tuy không đẹp

  > như mấy người ăn học giỏi nhưng con vợ em vui

  > lắm. Ngày con em đi học, mọi việc đều do vợ

  > em lo liệu nhưng giấy nhãn bao tập nó nói em

  > muốn anh ghi cho con. Không hiểu sao khi viết xong

  > tên con bé lên tờ giấy nhãn, em cứ rưng rưng

  > nước mắt. À! Còn chuyện nầy nữa. Con em nó

  > học giỏi lắm, ngày nào về cũng khoe con tập

  > viết được mười điểm. Bữa nọ, chẳng biết

  > moi móc thế nào nó cầm ngay quyển tập viết

  > của em ra hỏi: Ba ơi! Cuốn tập viết nầy của

  > ai vậy? Nhìn là phớt qua biết của ai rồi, em

  > đáp đại: Ờ! Của ba học hồi nhỏ đó con. Nghe

  > vậy, con bé lật ra xem rất chăm chú rồi bình

  > luận. Hồi nhỏ ba viết chữ xấu hơn con! Em

  > chẳng biết nên khóc hay cười. Đã vậy, nghiên

  > cứu một hồi nó còn phát hiện: Ba ơi! Sao cô

  > giáo của ba không cho điểm? Đến đây thì em

  > ngọng thật sự, gương mặt em lúc đó chắc

  > giống y như hồi con vợ em nhờ ghi số đo cho

  > khách. Em vả lả chắc tại cô quên. Con bé vẫn

  > chưa buông tha: Sao cô lại quên vậy ba? Đến đây

  > thì em thật sự đầu hàng, em “bán cái” cho

  > vợ: Cái đó thì con phải hỏi má con mới biết!

  > Con bé đang ngồi trong lòng em tuột cái rột

  > xuống đất, cầm quyển tập chạy ra nhà sau: Má

  > ơi! Sao cô giáo của ba quên cho điểm… Em vớ

  > cái nón, nói vọng ra sau: Anh đi công chuyện! Rồi

  > em trở lại đúng cái quán cà phê bờ sông, cũng

  > đúng bàn đó, kêu cái đen ngồi nhâm nhi. Lần

  > nầy em không buồn, mà vui lắm. Niềm vui mênh

  > mông như con nước đang tràn bờ, cũng chẳng

  > biết vì lẽ gì!

  >

  >

  >

  >

  > Nghe câu chuyện Tâm kể, có lúc tôi bật cười,

  > cũng có khi nghe cay cay sóng mũi./.

  >

  >

  >

  >

  >

  >

  >

  >

  >

  > Nguyễn Trung Nguyên

  >

  >

  >

  > Trần Bá Thiện

  > bathien958@gmail.com

  >

  >

 




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét